Tín ngưỡng là gì ? ví dụ về tín ngưỡng
Tín ngưỡng là gì? niềm tin được con người thể hiện thông qua các nghi lễ gắn với phong tục, tập quán truyền thống nhằm mang lại sự bình yên về mặt tinh thần cho cá nhân và cộng đồng.
Ở Việt Nam, "Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, không theo tôn giáo nào, các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. để sử dụng tín ngưỡng và tôn giáo.
Xem Thêm: Tín ngưỡng là gì? Nó khác với tôn giáo và mê tín như thế nào?
Vậy tôn giáo là gì? Một ví dụ về tôn giáo? Quý khách hàng quan tâm vui lòng theo dõi nội dung các bài viết sau để tìm hiểu thêm.
khái niệm niềm tin
Theo Wikipedia, một niềm tin là một niềm tin có hệ thống mà mọi người tin rằng có thể giải thích thế giới và mang lại hòa bình cho bản thân và những người khác. Niềm tin còn là sự thể hiện giá trị sống, ý nghĩa của cuộc sống bền vững, và đôi khi được hiểu là tôn giáo.
Theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tín ngưỡng, tôn giáo là hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách quan một cách hoang đường, hão huyền.
Một số nhà thần học coi tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin vào những điều thiêng liêng, huyền bí, có những yếu tố siêu nhiên, có sức mạnh và quyền năng to lớn để cứu con người thoát khỏi đau khổ, đạt được hạnh phúc và hòa bình.
Dưới góc độ tâm lý học, tín ngưỡng là một hiện tượng tâm lý xã hội, thông qua hệ thống nghi lễ hiến sinh, nó phản ánh niềm tin của một nhóm người nhất định vào thế giới vô hình, sức mạnh siêu nhiên và sức mạnh thống trị của nó đối với thế giới. Quá trình hình thành và phát triển của tín ngưỡng gắn liền với lịch sử phát triển của cộng đồng và phản ánh đời sống thực tế của cộng đồng.
Cũng có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam:
- Theo Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn, từ tín ngưỡng có thể có hai nghĩa. Khi nói đến tự do tôn giáo, người nước ngoài có thể hiểu nó là tín ngưỡng chung (Belie, lelieve, croyance) hoặc tín ngưỡng tôn giáo (Belie, believe, croyance riligieuse). Nếu một niềm tin được hiểu là một niềm tin, thì có một phần nào đó nằm ngoài nó.
- Các học giả như Toàn Anh, Phan Kế Bính, v.v… cho rằng tôn giáo là tín ngưỡng dân gian thể hiện nghi lễ thờ cúng thông qua lễ hội, phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam.
Theo Nguyễn Chính, tín ngưỡng là niềm tin, sự tin tưởng, yêu mến vào các thế lực siêu nhiên mà tri thức và kinh nghiệm của con người chưa đủ để cắt nghĩa, lý giải.
——Trong Từ điển Hán Việt, Dao Weiying giải thích: Tín ngưỡng là sự thờ cúng mê tín của một tôn giáo hay hệ tư tưởng nào đó.
Cũng có quan điểm cho rằng “tôn giáo đồng nghĩa với tâm linh (tín ngưỡng thiêng liêng) cũng có nghĩa là tâm linh không phải là tôn giáo, tâm linh chỉ là khả năng dẫn đến tôn giáo”.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Điều 2 Khoản 1 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định tín ngưỡng là tín ngưỡng do cá nhân thể hiện thông qua các nghi lễ liên quan đến phong tục, tập quán truyền thống nhằm mục đích đem lại sự hòa thuận, hạnh phúc cho cá nhân và cộng đồng.
Vì vậy, khái niệm về niềm tin có những cách hiểu khác nhau, nhưng đều thống nhất rằng, niềm tin là sự ngưỡng mộ và tin tưởng của con người vào các thế lực siêu nhiên, huyễn hoặc và thần bí.
Tìm Hiểu: Điểm giống và khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng, tín ngưỡng và mê tín dị đoan, mối quan hệ
đặc điểm của niềm tin
- Tín ngưỡng Việt Nam cũng giống như các bộ phận khác của văn hóa Việt Nam, có những đặc điểm của văn hóa nông nghiệp, đó là:
—— Tôn trọng thiên nhiên và gần gũi thiên nhiên: Được thể hiện ở niềm tin vào việc bênh vực thiên nhiên.
- Sự hài hòa âm dương: thể hiện ở đồ thờ: trời đất, rồng bất tử, thưa ông.
- Phụ nữ Nuôi: Xuất hiện nhiều nữ thần như Thánh Mẫu (Bà Trời - Đất - Nước), Mẫu Tứ Phủ (Bà Mây - Mưa - Sấm - Sét) ...
- Tổng hợp và linh hoạt, do đó đa thần giáo chứ không phải là độc thần giáo như nhiều tôn giáo khác.
Phân loại tín ngưỡng ở Việt Nam
Niềm tin Thịnh vượng
- Niềm tin, sự ngưỡng mộ và tôn thờ thiên nhiên và sự sinh sản của con người. Tín ngưỡng phồn thực được hình thành từ lâu trong lịch sử, dựa trên tư duy và cảm nhận trực quan của cư dân nông nghiệp trước khi sinh sản, nhằm duy trì sự sống của con người, động thực vật. Họ nhìn thấy một sức mạnh siêu nhiên trong thực tại đó và xem các hiện vật và thực tế là thần thánh. Vì vậy, bản chất của tôn giáo sinh sản là một tín ngưỡng tìm kiếm sự sinh sôi và dồi dào.
Tìm Hiểu Thêm: Sử dụng pháp luật là gì?
Niềm tin vào khả năng sinh sản đã tồn tại trong suốt lịch sử và có hai hình thức: tôn thờ bộ phận sinh dục nam và nữ, được coi là tôn thờ năng lượng sống thực tế (sinh là sinh, là thực xuất, khí là công cụ của khả năng sinh sản). ). ). Đây là một hình thức thờ cúng sinh sản đơn giản rất phổ biến trong các nền văn hóa nông nghiệp trên thế giới.
Ví dụ: Cột đá trong chùa đập. Linga, Yuni ở đền Chăm ... thờ cúng giao phối - một hình thức tín ngưỡng sinh sản độc đáo. Ở Việt Nam cũng có những biểu tượng của tín ngưỡng này như: tượng bốn đôi giao duyên, nắp thạp đồng đúc ở Dao Sheng (Yên Bái, 500 năm trước Công nguyên), tượng cóc giao phối, múa “Tung-di” trong làng. lễ hội Trung Châu, nay là tỉnh Phú Thọ ...
tôn thờ thiên nhiên
Thờ tự nhiên là một giai đoạn phát triển tất yếu của con người. Đối với người Việt Nam, bắt nguồn từ canh tác lúa nước, sự gắn bó với thiên nhiên ngày càng mạnh mẽ theo thời gian, trong khi sự phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau trong tự nhiên đã dẫn đến những hệ quả trong lĩnh vực nhận thức. Trong lĩnh vực tín ngưỡng, đó là tín ngưỡng đa thần. Bản chất tiêu cực của văn hóa trọng nông dẫn đến hậu quả là trong các mối quan hệ xã hội, lối sống thiên về phụ nữ nhiều hơn, trong khi trong tôn giáo, địa vị của nữ thần là chủ yếu. Vì vậy, phong tục cúng mẹ đã trở thành một tín ngưỡng đặc trưng của người Việt.
Mọi chi tiết xin vui lòng liên hệ LSU
Nhận xét
Đăng nhận xét